Thưa Luật sư! Tôi có một vấn đề cấn tư vấn như sau:
Vợ chồng tôi có mua mảnh đất sổ đỏ chỉ mang tên của người chồng: Khi làm hợp đồng
sang tên cho vợ chồng tôi thì bên bán cũng chỉ ghi có tên chồng, nhưng không có
thông tin về vợ. Bên mua thì đầy đủ cả hai vợ chông tôi. Chữ kỹ trên hợp đồng
cũng chỉ có chữ ký của người chồng. Khi chuyển lên trên huyện ban hành chính
công đã duyệt, tôi đã hoàn thành xong thủ tục nộp thuế. Tuy nhiên tôi thắc mắc
là hợp đồng thiếu chữ ký của vợ bên bán – Vợ vẫn còn sống và vẫn là vợ chồng hợp
pháp thì có ảnh hưởng gì không? Và tại sao xã và huyện vẫn giải quyết. Bây giờ
tôi phải làm gì? Tôi xin chân thành cảm ơn!
Trả
lời:
Chào bạn, Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề
nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Đại Việt.
Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư
vấn cụ thể như sau:
Cơ sở pháp lý:
Bộ Luật Dân sự năm 2015
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Nội dung phân tích:
Thứ nhất, mảnh đất này thuộc sở hữu chung của hai vợ
chồng
Căn cứ Điều 213 Bộ luật dân sự 2015 quy định về sở hữu
chung của vợ chồng như sau:
"1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp
nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản
chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo
thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo
thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản
chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này."
Về nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng,
thì vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình
và lao động có thu nhập.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật hôn
nhân gia đình năm 2014 quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng
đối với tài sản chung: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng
nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng,
trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác“.
Mảnh đất hình thành trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng
thì khi đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ ghi cả tên
vợ chồng bạn trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, song cũng không phải trong
mọi trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều ghi tên cả vợ và chồng. Để
bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng
có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu
nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng là do vợ,
chồng thỏa thuận đây là tài sản riêng của một bên. Trong trường hợp này, vợ hoặc
chồng phải lập giấy cam kết là tài sản riêng của người kia. Giấy cam kết này phải
được công chứng viên chứng nhận.
Sau khi có Giấy cam kết này, công chứng viên sẽ chứng
nhận giao dịch để một bên đứng tên. Trường hợp sau này người đứng tên (chủ sở hữu)
muốn chuyển nhượng (định đoạt nói chung) cho người khác thì phải đồng thời xuất
trình văn bản cam kết trước đây. Việc chuyển nhượng này không đòi hỏi phải có sự
tham gia của người không đứng tên trên Giấy chứng nhận.
Thứ hai, mảnh đất chỉ thuộc sở hữu riêng của người
chồng:
Điều 43 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi
người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại
các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ,
chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ,
chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ,
chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33
và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Điều 44 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng:
“1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình
quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia
có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người
có tài sản.
3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được
thanh toán từ tài sản riêng của người đó.
4. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà
hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc
định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.”
Như vậy đối với trường hợp của bạn, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền vẫn giải quyết thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu đất đai mà chỉ
có người chồng đứng tên trong sổ đỏ và chỉ có chữ kí của người chồng trong hợp
đồng mua bán là hợp pháp khi người chồng có giấy tờ chứng minh mảnh đất đó là
tài sản riêng của mình
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của
quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của
pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư
vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm
lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa
hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được
ý kiến phản hồi của quý khách hàng.
Thủ tục hòa giải về tranh chấp đất đai ủy ban nhân dân cấp xã
Hoặc các bài viết cùng chủ đề tại:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét