Câu
hỏi:
Tình huống 4: Vừa qua tôi có tranh chấp quyền sử dụng
đất và tài sản với con của chú tôi. Việc sử dụng đất của tôi đã được úy ban
nhân dân xã kết luận là hợp pháp vào năm 2002 do tôi đã có sổ đỏ và quyết định
buộc con chú tôi phải trả lại đất cho tôi. Năm 2003 thanh tra huyện kết luận
con chú tôi vi phạm Điều 6 Luật Đất đai, phải trả lại đất cho tôi hạn đến ngày
30/4/2003. Ngày 14/4/2003 Chủ tịch úy ban nhân dân huyện ra Quyết định số 136
chuẩn y kết luận của thanh tra nhưng cho tới nay tôi vẫn chưa đòi được đất. Hỏi:
Tôi phải lầm gì để quyết định của úy ban nhân dân được thực hiện?
Câu
trả lời:
Căn cứ Điều 203 Luật
Đất đai 2013 quy định về Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
quy định như sau:
“Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân
dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận
hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng
nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật
này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp
đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp
tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được
thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu
không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp
luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng
ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên
và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về
tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải
quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh
chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.”
Như vậy, Căn cứ quy định trên trường hợp Quyết định
giải quyết của UBND cấp huyện là đúng thẩm quyền đối với trường hợp tranh chấp
đất giữa cá nhận hộ gia đình với nhau. Sau khi có quyết định hai bên nếu không
đồng ý có thể khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện ra tòa án.
Nhưng tại thời điểm đó cả hai bên đều không có ai khiếu nại gì về quyết định
này do đó hai bên phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh. Trường hợp không chấp
hành sẽ bị cưỡng chế thi hành. Việc gia đình anh chưa lấy lại được đất có thể
làm đơn đề nghị Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện biện pháp cưỡng chế thi
hành.
Xem thêm các tin tức liên quan:
GIẢI QUYẾT TRƯỜNG HỢP SỔ ĐỎ CẤP KHÔNG ĐÚNG THỰC ĐỊA
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI KHI CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN.
Xem thêm các bài viết cùng chủ đề tại:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét